Trong số đó, Kim tự tháp Djoser là lâu đời nhất, được xây dựng vào khoảng từ năm 2630 đến năm 2611 trước công nguyên ởVương triều thứ ba.
Nó là một trong sáu nền văn minh phát sinh một cách độc lập trên thế giới.
Rất lâu sau thời kỳ xây dựng kim tự tháp ở Ai Cập, một sự bùng phát về việc xây kim tự tháp xảy ra ở khu vực mà ngày nay làSudan, sau khi phần lớn Ai Cập rơi vào ách thống trị của các vị vua Napata
Tất cả các kim tự tháp Ai Cập đều được xây trên tả ngạn sông Nile, nơi mặt trời lặn và được xem là có liên quan tới thế giới của người chết trong thần thoại Ai Cập.[16]
Tất cả các kim tự tháp Ai Cập, trừ kim tự tháp Zawyet el-Amwat (hay Zawyet el-Mayitin), đều nằm trên tả ngạn sông Nile, và hầu hết được tập trung lại với nhau trên những vùng kim tự tháp. Các vùng quan trọng nhất được liệt kê dưới đây theo thứ tự địa lý từ bắc xuống nam.
Giza là nơi xây dựng Kim tự tháp Khufu (còn được biết đến với tên gọi "Kim tự tháp Kheops"); Kim tự tháp Khafre (hay Kephren); Kim tự tháp Menkaure (hay Mykerinus), cùng với một số các công trình phụ được gọi là "kim tự tháp của Hoàng hậu"; cũng như tượng Nhân sư.
Trong số 3 kim tự tháp này, chỉ có Kim tự tháp Khafre còn giữ được một phần lớp đá vôi lát bề mặt ở gần đỉnh. Kim tự tháp này trông có vẻ lớn hơn Kim tự tháp Khufu nhờ vị trí xây dựng cao hơn và góc nghiêng dốc hơn, dù thực chất nhỏ hơn về cả chiều cao lẫn thể tích.
Thời gian xây dựng[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng sau cho thấy thứ tự thời gian của hầu hết các kim tự tháp được nhắc đến ở đây. Thông tin về mỗi kim tự tháp bao gồm vị pharaon đã ra lệnh xây nó, triều đại ước tính của họ và vị trí của kim tự tháp.
Kim tự tháp / Pharaon | Triều đại | Vị trí |
---|---|---|
Djoser | 2630–2612 trước công nguyên | Saqqara |
Sneferu | 2612–2589 trước công nguyên | Dashur |
Sneferu | 2612–2589 trước công nguyên | Dashur |
Sneferu | 2612–2589 trước công nguyên | Meidum |
Khufu | 2589–2566 trước công nguyên | Giza |
Djedefre | 2566–2558 trước công nguyên | Abu Rawash |
Khafre | 2558–2532 trước công nguyên | Giza |
Menkaure | 2532–2504 trước công nguyên | Giza |
Userkaf | 2494-2487 trước công nguyên | Saqqara |
Sahure | 2487–2477 trước công nguyên | Abu Sir |
Neferirkare Kakai | 2477–2467 trước công nguyên | Abu Sir |
Nyuserre Ini | 2416–2392 trước công nguyên | Abu Sir |
Amenemhat I | 1991–1962 trước công nguyên | Lisht |
Senusret I | 1971–1926 trước công nguyên | Lisht |
Senusret II | 1897–1878 trước công nguyên | el-Lahun |
Amenemhat III | 1860–1814 trước công nguyên | Hawara |
Piye | 721 trước công nguyên | El-Kurru |
Taharqa | 664 trước công nguyên | Nuri |
Trong bốn thiên niên kỷ đây là công trình cao nhất thế giới, và tiếp tục giữ vị trí này cho tới khi tháp Thánh đường Lincoln cao 160 mét được hoàn thành năm 1300. Độ chính xác trong xây dựng của kim tự tháp đạt tới mức bốn cạnh đáy có độ lệch trung bình chỉ là 50 mm chiều dài, và 12 giây góc so với một hình vuông chuẩn. Các cạnh hình vuông gần thẳng hàng với bốn điểm la bàn thứ tự tới trong 3 phút cung và dựa trên cực bắc thực chứ không phải cực bắc từ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét